Tiểu sử Đức Huệ Minh Kim Tiên
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
ĐỨC HUỆ MINH KIM TIÊN
Huệ Minh Kim Tiên, phàm danh là Trần văn Lược, sanh năm 1890 tại Vàm Sáng, Xà No, làng Nhơn Ái, tỉnh Cần Thơ, nay là huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ. Song thân của ông cũng là người khá giả, sau giađình ông dời về Bằng Tăng, hạt Long Xuyên.
Khi ông trưởng thành thì song thân của ông định đôi bạn cho ông. Quê bên vợ ở tại làng Thường Phước, Rạch Cái Muồn, Cần Thơ, nay thuộc xã Đông Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Bên vợ của ông cũng là nhà khá giả, tánh tình thuần hậu, có một người con gái, không ai hôm sớm nên gả con, nuôi rễ. Từ đó ông ở theo quê vợ, coi sóc ruộng vườn, lo làm ăn, gần xa đều thương mến. Cách ít năm, ông để dành được một số tiền mua đặng một số đất.
Năm 1930, ông thọ Pháp Chơn Truyền của Đức Ngô Minh Chiêu, theo Đạo Cao Đài, phái Chiếu Minh ở Thảo Lư Cần Thơ, nay là Thánh Đức Tổ Đình. Ông trường trai tịnh luyện, học đạo, hôm sớm cần chuyên, ngày đêm khổ luyện, tứ thời công phu, một lòng tinh tấn với đạo mầu, phế hết cuộc đời, trần duyên xóa bỏ, vui say mùi đạo, để tâm phẳng lặng an nhiên, đem tư tưởng ngoài vòng tục lụy. Nhưng chỗ ông ở hiện bấy giờ ít người mộ đạo, chỉ lo giành giựt lợi quyền, chen lấn trog vòng mộng ảo, mê say vật chất, đắm đuối bể tình, cho đạo đức là mê tín dị đoan để gạt người tham vọng, khinh khi, chê bai ngạo báng đạo đức, không còn nhân tâm thể đạo.
Ông chán ngán nhân tình thế thái, nên phế hết gia đình cho vợ con, Ông mua một số đát riêng tại làng Như Long, rạch Xẻo Môn, ấp Mỹ Trường nay là ấp Long Trường 1, xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Ông cất một căn nhà sàn, có gát, một mình hôm sớm công phu tứ thời, ngày đêm giồi luyện. Từ đó ông đóng cửa tu trì, ít hay đi đâu và cũng không giao thiệp cùng ai. Khi đến ngày rằm và ngày 30 thì ông hay đi hầu đàn tại Cần Thơ, nay là Thánh Đức Tổ Đình. Ông tu được ít năm thì vợ và con gái út của ông cũng thọ Pháp Chơn Truyền, công phu luyện đạo.
Ông tu công phu tịnh luyện trót 15 năm thì ông đắc thành quả vị tại thế. Vì sao mà biết ông đắc đạo thành Tiên tại thế?
Có một lần ông xuất hồn về cơ tại Chiếu Minh Đàn. Chủ đàn là Giáo Sư Nguyễn Văn Chương ở tại Cái Tắc. Ngày 20/2/1945 (Ất Dậu) âm lịch giờ ngọ. Sau khi ông liểu đạo rồi, ông về cơ nơi Chiếu Minh Tự, dạy lục lại bài Thánh giáo đó mới biết ông dã xuất Chơn linh lúc còn tại thế về cơ dạy đạo. Tôi xin trích lục đàn đó để cho quý Ngài tu đơn luyện đạo hoặc là chưa tu hành xem để làm triệu chứng.
Tiếp đàn trích lục:
THI
LƯỢC rồi tinh khí hiệp đơn – nguơn,
Ngũ tạng từ nhiên hiệp kiết – đơn.
Bổ thể nhẹ nhành quy Hạo – Khí,
Giả từ chư vị Lão phi bôn.
Từ khi nền đạo rẽ chia thì phái Chiếu Minh đóng cửa lo tu thân, ít hay giao thiệp và phổ độ ai. Vì lấy câu: “Ngô thân bất độ, hà thân độ”, mà làm đề. Còn Chi phái Tiên thiên Đại Đạo thì lo phổ hóa quần sanh nên ít biết nhau cho lắm. Nay nhằm thời kỳ duy nhất nên khiến ông xuất chơn linh về cơ bên phái Tiên Thiên, do đồng tử Nhựt Quang chấp bút.
Thuở bấy giờ, Nhựt Quang nào có biết ông và cũng khiến vào ngày 21/5/1945 đồng tử Nhựt Quang cầm Thánh giáo đi Chiếu Minh Đàn (Cái Tắc) và có ghé thăm nhà vị Giáo Hữu Đinh Văn Như. Ông Như cầm Thánh giáo xem rồi nói: Lược nay là Quân Nhì Lược ở Xẻo Môn, thôi để tôi đi với 2 ông (có ông Dương Văn Phôi) Lên Cái Tắc chơi, khi về ghé thăm ông Lược, khi mọi người đang ở nhà ông rồi, thì chừng vài giờ mới đem Thánh giáo ra đọc cho ông nghe, ông chỉ cười chớ không nói chi hết.
Từ khi chia tay khoảng 01 tháng, ngày 18/4/1945, giờ Tý, ông đem đạo Vô Vi Tâm Pháp mà truyền lại cho ông Nhựt Quang và ông Dương Văn Phôi để lo tu tịnh dưỡng. Song ông Nhựt Quang chỉ lo phận sự Hiệp Thiên Đài, đi ngồi cơ Đàn nầy, Tịnh nọ nên ít thường về, ông có lòng mong đợi nhắc nhở, thường than vãn: một mình Nhựt Quang học đạo rất muộn. Chắc có lẽ ông biết ngày giờ liễu đạo sắp gần nên ông mới than như vậy.
Ông Nhựt Quang tu học đươc 40 ngày thì ông có hơi yếu nhưng ông cũng công phu, ăn uống như thường. Đến ngày mùng 5 tháng 6 năm 1945 (Ất Dậu), lúc 5 giờ chiều ông ngồi công phu và xuất chơn thần về nơi Bạch Ngọc, chân xếp bằng, tay chấp tự nhiên như người sống. Qua ngày sau, giờ Ngọ lập đàn cầu Thần Tiên về dạy cách tẩn liệm, ông Nhựt Quang thủ cơ. Ông về đàn và viết ra như vầy:
THI
Bồng lai thoát kiếp nợ trần duyên,
Một dạ cần tu giữ đạo huyền.
Thập ngũ linh cơ Chiếu Minh Tự,
Đại thời thọ mạng hưởng ân Thiên.
Không nên biết, tiếp Ngôi Hai, ta xin kiếu.
Tiếp Điển
THI
NGÔI xưa trở lại khỏe thân vàng,
HAI kiếp chưởng tu lại niết bàn.
GIÁO hóa huyền vi thâu Bắc khuyết,
CHỦ huyền cơ nhiệm tại Nam Bang.
Thầy mừng các con nghe.
THI
Vui bấy bồng lai trở gót hài,
Dậu thời Thầy rước lại Thiên thai.
Trần duyên đã mãn thân cơ cực,
Tiếp điển rồi đây sẽ giải bày.
* * *
Ngọ thời liệm xác phải y kỳ,
Cựu luật duy truyền phải chỉnh y.
Các trẻ hiểu thông Thầy miễn dạy,
Làm tròn như cũ ấy điều quy.
* * *
Chiếu Minh Nghĩa Địa gởi thi hài,
Linh tánh trở về lại Thiên thai.
Cho rõ đạo mầu là quý trọng,
Cơ huyền chưởng lại dựng nay mai.
* * *
Mùng 7, Tý thời phải thượng hành,
Đến nơi nghĩa địa lúc năm canh.
Thìn thời nhập huyệt tua ghi nhớ,
Mật niệm đưa linh để tiến hành.
Liệm xác ông để ngồi vô Mộc Giác, kèn vãi để vào đóng nấp lại. Cuộc tang lễ nầy rất nên giản dị, không tụng kệ kinh chi. Anh em, huynh đệ hay tin ông liễu đạo đã đến chia buồn cùng tang gia phúng điếu. Tiền bạc của ai đều hồi lại hết vì lúc còn sống ông có di ngôn không nên nhận của ai. Khi nghe đưa linh cửu ông đến nơi nghĩa địa rồi để xuống kim tĩnh, thợ hồ xây lên thành cái Tháp. Cuộc tống tán ông đến đây đã xong.
Đến ngày 15/ 6/ 1945 (Ất Dậu), ông về cơ tại Chiếu Minh Tự.
THI
Phất phơ linh tánh đến non bồng,
Thập nhựt đắc kỳ chuyển lục thông.
Đàn nội ta mừng chư thiện sĩ,
Bền lòng học đạo đến Hoa long.
Hiểu ai chăng? Dạ, bạch không hiểu….cườ!!!
THI
Hoa long TRẦN thế chịu tên đao,
Hội ngộ VĂN nhơn chí kiệt hào.
Thần khí LƯỢC rồi xong kiếp nợ,
Giáng mừng chư sĩ chí thanh cao.
Này chư hiền, Thiên cơ bất khả lộ nên ta về đàn trước 3 tháng mà hiệp tác cùng chư hiền, hiểu chăng. Tầm Thánh giáo trước 3 tháng thì rõ, ta xin kiếu.
Khi bãi đàn rồi, tìm lại Thánh giáo cũ, nhằm Đàn ngày 20/2/1945, giờ Ngọ tại Chiếu Minh Đàn, có tên ông nên mới biết Ông đắc đạo tại thế.
Vậy xin quý huynh đệ tỷ muội rán lo học đạo công phu cho đắc liễu siêu phàm như ông đặng thoát khỏi vòng sông mê bễ khổ, trở lại đào nguyên, hưởng thú tiêu diêu, thông thả an nhàn thoát khỏi kiếp luân hồi vay trả thời có hay chăng?